Tổng quan Dạy học theo Dự án
Giới thiệu:
Việc đưa dự án vào trong chương trình dạy
học không phải là ý tưởng mới lạ hay mang tính cách mạng trong giáo dục.
Tuy nhiên, trong thập kỷ vừa qua, việc triển khai dự án trong thực tế
đã được phát triển chính thức thành một chiến lược dạy học. Dạy học theo
dự án đã chiếm được vị thế đáng nể trong lớp học sau khi các nhà nghiên
cứu hệ thống lại những điều giáo viên vốn đã biết từ lâu: Học sinh sẽ
hứng thú hơn với việc học khi có cơ hội thâm nhập vào những vấn đề phức
tạp, mang tính thách thức cao, và đôi khi đầy rẫy vấn đề nhưng rất sát
với thực tế đời sống.
Dạy
học theo dự án vượt xa hơn việc tạo nên sự hứng thú trong học sinh.
Những dự án được thiết kế tốt sẽ khuyến khích việc tìm hiểu tích cực và
tư duy bậc cao. (Thomas, 1998). Những nghiên cứu về bộ não đã nhấn mạnh
giá trị của những hoạt động học tập này. Khả năng tiếp nhận những hiểu
biết mới sẽ được thúc đẩy khi người học được “nối kết với những hoạt
động giải quyết vấn đề, và khi học sinh được hỗ trợ để hiểu vì sao, khi
nào và bằng cách nào các sự kiện và kỹ năng có liên quan đến nhau”
(Bransford, Brown, & Conking, 2000, tr.23).
Thế nào là dạy học theo dự án?
Dạy
học theo dự án là một mô hình dạy học trong đó học sinh tham gia vào
việc tìm hiểu những vấn đề hấp dẫn và cuối cùng phải tạo ra được những
sản phẩm thực tế. Các dự án cho phép tạo ra nhiều cơ hội học tập tại lớp
hơn, rất đa dạng về chủ đề và quy mô, có thể được tổ chức rộng rãi ở
các cấp học khác nhau. Tuy nhiên, các dự án thường có cùng những đặc
điểm chung. Dự án được phát triển từ những vấn đề mang tính thách thức,
không thể giải quyết chỉ bằng kiến thức học vẹt. Dự án đặt học sinh vào
những vai trò tích cực như: người giải quyết vấn đề, ra quyết định, điều
tra viên hay người viết báo cáo. Dự án nhắm đến những mục tiêu giáo dục
quan trọng và đặc thù chứ không phải chỉ là trò giải trí hoặc bổ sung
cho chương trình “thực”.
Dạy học theo dự án có liên hệ thế nào đến việc khám phá tìm hiểu?
Quá
trình khám phá tìm hiểu bao gồm một loạt các hoạt động để thỏa mãn óc
tò mò bẩm sinh của con người về thế giới. Trong bối cảnh giáo dục, việc
khám phá tìm hiểu này mang một ý nghĩa cụ thể hơn. Giáo viên sẽ áp dụng
việc khám phá tìm hiểu như một chiến lược dạy học nhằm khuyến khích học
sinh đặt câu hỏi, lập kế hoạch, tiến hành tìm hiểu, quan sát và suy nghĩ
về những gì mình đã khám phá. Tuy nhiên, đây không phải là một định
nghĩa khô cứng. Ngay cả trong một lớp học riêng lẻ, các hoạt động tìm
hiểu vẫn có thể diễn ra một cách liên tục, từ những hoạt động theo định
hướng của giáo viên đến những hoạt động mở rộng theo sở thích của học
sinh (Jarret, 1997).
Sẽ
dễ dàng hơn nếu coi dạy học theo dự án là một tập con trong dạy học
khám phá. Một nghiên cứu về dạy học theo dự án đã kết luận rằng những dự
án như vậy thường tập trung vào những câu hỏi hoặc vấn đề “thôi thúc
học sinh phải đối mặt (và “chiến đấu”) với những khái niệm và nguyên tắc
trọng tâm của môn học” (Thomas, 2000, tr.3). Hơn nữa, những hoạt động
chính trong dự án đã bao hàm quá trình khám phá tìm hiểu và kết cấu kiến
thức của học sinh (Thomas, 2000). Học sinh vẫn thường có sự lựa chọn
khi thiết kế dự án, cho phép các em theo đuổi ý thích và trí tò mò của
mình. Trong quá trình trả lời những câu hỏi do chính bản thân đặt ra,
học sinh đã có thể khám phá tìm hiểu thêm về các chủ đề vốn chưa được
giáo viên đặt ra như mục tiêu dạy học.
Lợi ích của Dạy học theo dự án là gì?
Dạy
học theo dự án mang lại rất nhiều lợi ích cho cả giáo viên lẫn học
sinh. Ngày càng nhiều các nghiên cứu lý luận ủng hộ việc áp dụng việc
dạy học theo dự án trong trường học để khuyến khích học sinh, giảm thiểu
hiện tượng bỏ học, thúc đẩy các kỹ năng học tập hợp tác và nâng cao
hiệu quả học tập (Quỹ Giáo dục George Lucas, 2001).
Đối với học sinh, những ích lợi từ dạy học theo dự án gồm:
· Tăng tính chuyên cần, nâng cao tính tự lực và thái độ học tập (Thomas, 2000)
· Kiến
thức thu được tương đương hoặc nhiều hơn so với những mô hình dạy học
khác do khi được tham gia vào dự án học sinh sẽ trách nhiệm hơn trong
học tập so với các hoạt động truyền thống khác trong lớp học (Boaler,
1997; SRI, 2000)
· Có cơ hội phát triển những kỹ năng phức hợp, như tư duy bậc cao, giải quyết vấn đề, hợp tác và giao tiếp (SRI, 2000)
· Có
được cơ hội rộng mở hơn trong lớp học, tạo ra chiến lược thu hút những
học sinh thuộc các nền văn hóa khác nhau (Railsback, 2002)
Với
nhiều học sinh, tính hấp dẫn của hình thức học này xuất phát từ tính
thực tiễn của kinh nghiệm. Học sinh đóng vai và thực hiện hành vi của
những người đang hoạt động trong một lĩnh vực cụ thể. Khi thực hiện một
đoạn video tài liệu về vấn đề môi trường, thiết kế tờ rơi hướng dẫn du
lịch, quảng bá về các di tích lịch sử quan trọng ở địa phương, hay thiết
kế bài trình bày đa phương tiện về những mặt lợi và hại trong việc xây
dựng phố mua sắm, học sinh đã được tham gia vào những hoạt động đời
thường có ý nghĩa vượt ra khỏi phạm vi lớp học.
Đối
với giáo viên, những ích lợi mang lại là việc nâng cao tính chuyên
nghiệp và sự hợp tác với đồng nghiệp, cơ hội xây dựng các mối quan hệ
với học sinh (Thomas, 2000). Bên cạnh đó, nhiều giáo viên cảm thấy hài
lòng với việc tìm ra được một mô hình triển khai, cho phép hỗ trợ các
đối tượng học sinh đa dạng bằng việc tạo ra nhiều cơ hội học tập hơn
trong lớp học. Giáo viên cũng nhận thấy rằng người được hưởng lợi nhiều
nhất từ dạy học theo dự án là những học sinh không học tốt được theo
cách dạy học truyền thống.
Mô hình dạy học này làm thay đổi lớp học truyền thống như thế nào?
Báo
cáo về phát triển chuyên môn của chương trình Dạy học cho Tương lai
Intel® (2003) đã mô tả lớp học trong đó giáo viên áp dụng hiệu quả mô
hình dạy học theo dự án như sau:
· Không có giải pháp định sẵn cho một vấn đề
· Một không khí học tập chấp nhận sai sót và thay đổi
· Học sinh ra quyết định trong khuôn khổ chương trình
· Học sinh thiết kế quá trình tìm kiếm giải pháp
· Học sinh có cơ hội thực hành
· Việc đánh giá diễn ra liên tục
· Có sản phẩm cuối và được đánh giá chất lượng
· Không có giải pháp định sẵn cho một vấn đề
· Một không khí học tập chấp nhận sai sót và thay đổi
· Học sinh ra quyết định trong khuôn khổ chương trình
· Học sinh thiết kế quá trình tìm kiếm giải pháp
· Học sinh có cơ hội thực hành
· Việc đánh giá diễn ra liên tục
· Có sản phẩm cuối và được đánh giá chất lượng
Đối
với những học sinh đã quá quen với các lớp học truyền thống, điều này
là sự chuyển đổi từ việc làm theo mệnh lệnh sang thực hiện các hoạt động
tự định hướng; từ việc ghi nhớ, nhắc lại sang khám phá, tích hợp và
trình bày; từ chỗ lắng nghe và thụ động sang giao tiếp, chịu trách
nhiệm; từ việc chỉ biết đến sự kiện, thuật ngữ và nội dung sang thông
hiểu các quá trình; từ lý thuyết sang vận dụng lý thuyết; từ chỗ lệ
thuộc vào giáo viên sang được trao quyền.
Giáo viên sẽ đương đầu với những thách thức nào?
Giáo
viên nếu muốn đưa dạy học theo dự án vào lớp học có thể phải áp dụng
những chiến lược dạy học mới để đạt được thành công. Việc giáo viên làm
người hướng dẫn hay hỗ trợ không phải là vai mà phần đông giáo viên từng
được học qua, hoặc thậm chí cũng không phải là thứ vai trò mà họ được
đào tạo để đi dạy.
Các
phương pháp dạy học trực tiếp lệ thuộc vào giáo trình, thuyết giảng, và
các cách đánh giá truyền thống thường không hiệu quả trong thế giới mở
ngỏ, liên môn của phương pháp dạy học theo dự án. Đúng hơn, người giáo
viên thực hiện việc hướng dẫn và làm mẫu nhiều hơn là “kể lể” Họ cần
phải thoải mái hơn trước những lần học sinh “rẽ sai” trên con đường hoàn
thành dự án (Intel, 2003). Người giáo viên cũng có thể nhận thấy mình
cũng đang học cùng với học sinh khi dự án mở ra.
Những thử thách cụ thể giáo viên sẽ gặp phải gồm:
· Nhận diện các tình huống để đem lại sự thành công cho dự án
· Cấu trúc các vấn đề thành những cơ hội học tập
· Hợp tác cùng đồng nghiệp để phát triển các dự án liên môn
· Quản lý quá trình học
· Tích hợp công nghệ hợp lý
· Phát triển các phương pháp đánh giá thực tế
Thực
ra, người giáo viên cần sẵn sàng chấp nhận rủi ro để có thể vượt qua
những thử thách ban đầu. Nhà quản lý có thể hỗ trợ bằng cách cho áp dụng
lịch trình hay thời gian làm việc dự kiến của nhóm linh động hơn, tạo
cơ hội cho giáo viên phát triển chuyên môn.